Chuẩn đoán xơ gan và cách điều trị phổ biến hiện nay

Xơ gan và cách điều trị như thế nào tùy thuộc vào kết quả chuẩn đoán chuyên khoa của bác sĩ. Tuy nhiên, khi có các dấu hiệu lâm sàn như dễ mệt, chuột rút cơ và sụt cân thì nên đến các cơ sở y tế uy tín để được chuẩn đoán chính xác.

Các triệu chứng lâm sàng ban đầu của bệnh xơ gan

Xơ gan có thể không có triệu chứng trong thời gian dài. Khởi phát của các triệu chứng có thể là âm thầm hoặc ít phổ biến hơn là đột ngột. Các biểu hiện như yếu, dễ mệt, chuột rút cơ và sụt cân là thường gặp.

Trong xơ gan tiến triển, thường có chán ăn ở mức độ nghiêm trọng kèm theo buồn nôn và đôi khi nôn. Đau bụng có thể có và liên quan với gan to, sự căng ra của bao Glisson hoặc là cổ trướng.

Những bất thường về kinh nguyệt (thường là vô kinh), bất lực, mất nhu cầu tình dục, vô sinh và vú to đau ở nam giới là có thể gặp. Nôn ra máu là triệu chứng gặp ở 15- 25% bệnh nhân. Sụt cân, vã mồ hôi và biểu hiện của bệnh mạn tính thường có.

dieu tri benh xo gan

Các dấu hiệu cận lâm sàng của bệnh xơ gan

Những bất thường xét nghiệm hoặc không có hoặc nhẹ trong xơ gan tiềm tàng hoặc yên lặng.

  • Thiếu máu (dấu hiệu hay gặp) thường là hồng cầu to;
  • Số lượng bạch cầu có thể giảm, tăng hoặc bình thường, phản ánh tình trạng tăng năng lách hoặc nhiễm trùng;
  • Giảm tiểu cầu có thể là thứ phát do ức chế tủy do rượu, nhiễm khuẩn, thiếu hụt folat hoặc lách biệt lập.
  • Những bất thường về đông máu có thể do suy giảm khả năng tổng hợp các yếu tố đông máu ở gan.

Các xét nghiệm sinh hóa máu phản ánh tổn thương và rối loạn chức năng tế bào gan, biểu hiện bằng

  • Mức tăng vừa phải AST, phosphatase kiềm và tăng không ngừng bilirubin.
  • Albumin huyết thanh thấp;
  • Gamma globulin tăng và có thể cao như trong viêm gan tự miễn.
  • Điện tâm đồ thường cho thấy khoảng QT kéo dài, có thể do sự hoạt hóa hệ thần kinh giao cảm trong xơ gan.

Sinh thiết gan có thể cho thấy xơ gan bất hoạt (xơ hóa với các nốt tái tạo) không có các biểu hiện đặc hiệu gợi ý nguyên nhân cơ bản. Có thể có các biểu hiện thêm vào của bệnh gan do rượu, viêm gan mạn tính hoặc các nguyên nhân đặc hiệu khác của xơ gan.

Các phương pháp chuẩn đoán bệnh xơ gan

  • Nội soi đường tiêu hóa có thể cho thấy có giãn tĩnh mạch thực quản hoặc dạ dày.
  • Siêu âm giúp đánh giá kích thước gan và phát hiện cổ trướng hoặc các nốt trong gan, bao gồm cả carcinoma tế bào gan kích thước nhỏ.
  • Cùng với siêu âm Doppler, siêu âm được dùng để đánh giá các tĩnh mạch lách, cửa và gan.
  • Những nốt trong gan có thể sẽ rõ hơn trên chụp cắt lớp vi tính (CT scan) có tiêm thuốc cản quang tĩnh mạch hoặc MRI cùng với mức alpha- fetoprotein huyết thanh.
  • Những nốt nghi ngờ ác tính có thể được sinh thiết dưới hướng dẫn của siêu âm hoặc CT scan.

dieu tri benh xo gan

Các biến chứng của xơ gan

  • Xuất huyết đường tiêu hóa trên có thể xảy ra do giãn tĩnh mạch, dẫn đến kiệt máu gây tử vong hoặc bệnh não hệ cửa.
  • Bệnh dạ dày tăng áp lực tĩnh mạch cửa hoặc loét dạ dày. 
  • Giãn tĩnh mạch cũng có thể do huyết khối tĩnh mạch cửa.
  • Suy gan có thể bị thúc đẩy bởi nghiện rượu, phẫu thuật và nhiễm trùng.
  • Carcinoma gan thường gặp hơn ở những bệnh nhân xơ gan nhưng ít gặp ở Mỹ.
  • Rối loạn chức năng tế bào Kupffer ở gan (lưới nội mô) và giảm hoạt độ opsonic dẫn đến tăng nguy cơ nhiễm trùng.
  • Bệnh cơ tim do lạm dụng rượu, giảm các reCeptor beta- adrenergic của tim và thay đổi huyết động học do tăng áp lực tĩnh mạch cửa.

Các biện pháp chung trong điều trị xơ gan

Nguyên tắc quan trọng nhất của điều trị là kiêng rượu. Chế độ ăn cần hợp lý với đầy đủ năng lượng và protein (75- 100g/ngày) nếu có ứ đọng dịch thì nên hạn chế natri. Nếu có bệnh não gan thì lượng protein đưa vào nên giảm xuống còn 60- 80g/ ngày. Bổ sung vitamin là cần thiết.

dieu tri benh xo gan

Cách điều trị xơ gan và hạn chế các biến chứng

Cổ trướng và phù:

Chọc dịch chẩn đoán thường được chỉ định. Chọc ở bụng hiếm khi gây ra các biến chứng nguy hiểm như chảy máu, nhiễm trùng hoặc, thủng ruột thậm chí ở những bệnh nhân có rối loạn đông máu nặng. Ngoài đếm số lượng tế bào và nuôi cấy, cần xác định mức albumin trong dịch cổ trướng, gradient albumin huyết thanh- cổ trướng (albumin huyết thanh trừ đi albumin dịch cổ trướng) >1,1 gợi ý có tăng áp cửa. Tăng mức adenosin deaminase trong dịch cổ trướng gợi ý viêm màng bụng do lao nhưng độ nhạy của xét nghiệm giảm ở những bệnh nhân có tăng áp cửa.

Cổ trướng ở những bệnh nhân xơ gan được cho là do tăng áp cửa (tăng áp lực thủy tĩnh); giảm albumin huyết (giảm áp lực keo); giãn mạch ngoại vi, có lẽ do giải phóng nội độc tố của oxid nitric với hậu quả tăng mức renin, angio- tensin và giữ natri ở thận; gan giảm bất hoạt aldosteron và tăng tiết aldosteron thứ phát do tăng sản xuất renin. Bài tiết nước cũng giảm trong xơ gan và giảm natri huyết có thể xuất hiện.

Ở tất cả các bệnh nhân cổ trướng do xơ gan, natri đưa vào qua chế độ ăn ban đầu có thể hạn chế tới 400- 800 mg/ngày; lượng natri đưa vào có thể rộng rãi hơn sau khi dùng thuốc lợi niệu nhưng cần hạn chế lượng dịch đưa vào (800- 1000ml/ngày) ở những bệnh nhân có giảm natri huyết (natri huyết thanh < 125 mẸq/L). Ở một vài bệnh nhân, có sự giảm nhanh cổ trướng khi nghỉ ngơi trên giường và hạn chế muối trong chế độ ăn. Những bệnh nhân có ứ đọng dịch nghiêm trọng hoặc được đánh giá bị cổ trướng “khó chữa” thì sự bài tiết natri qua nước tiểu thường dưới 10 mEq/L.

– Các thuốc lại tiểu: Nên dùng spironolacton cho những bệnh nhân không đáp ứng với hạn chế muối.

– Chọc dịch cổ trướng với thể tích lớn đối với những bệnh nhân cổ trướng to và tổn thương hô hấp

Chọc lượng dịch cổ trướng lớn có thể được lặp lại hàng ngày cho đến khi cổ trướng được giải quyết đáng kể và có thể làm giảm nhu cầu nhập viện. Nếu có thể, nên tiếp tục dùng thuốc lợi niệu với hy vọng ngăn ngừa cổ trướng tái phát.

– Phẫu thuật nối tắt hệ cửa trong gan qua tĩnh mạch cảnh: (Transjugular intrahepatic portosystemic shunts- TIPS) – TIPS nổi lên như là phương pháp thay thế cho phẫu thụật nối tắt hệ cửa trong những trường hợp bị chảy máu do giãn tĩnh mạch ngoan cố với phương pháp trị liệu chuẩn (như thắt nhánh qua nội soi hoặc liệu pháp làm xơ) và cho thấy là có lợi trong điều trị cổ trướng nặng ngoan cố.

– Phẫu thuật nối tắt tĩnh mạch màng bụng: Những nối tắt này có thể có hiệu quả nhưng có tỷ lệ biến chứng đáng kể như đông máu nội mạch rải rác trong 65% bệnh nhân

Ghép gan

Ghép gan được chỉ định ở những trường hợp bị bệnh gan mạn tính tiến triển không thể hồi phục, suy gan tối cấp và một số bệnh chuyển hóa trong đó thiếu hụt chuyển hóa là ở trong gan.

  • Chống chỉ định tuyệt đối bao gồm nhiễm khuẩn, bệnh ác tính (trừ carcinoma tế bào gan còn nhỏ ở gan bị xơ), bệnh tim phổi tiến triển (trừ shunt động- tĩnh mạch phổi do tăng áp cửa và xơ gan), nhiễm HIV và sự thiếu hiểu biết của bệnh nhân.
  • Chống chỉ định tương đối bao gồm huyết khối tĩnh mạch mạc treo và cửa, viêm gan B mạn tính có sự nhân lên của virus và người lạm dụng thuốc hoặc rượu.

Những người nghiện rượu cần kiêng rượu trong 6 tháng.

Ghép gan nên được cân nhắc ở những bệnh nhân có trạng thái chức năng xấu, tăng bilirubin, giảm albumin, rối loạn đông máu nặng, cổ trướng ngoan cố, chảy máu do giãn tĩnh mạch tái diễn, hoặc bệnh não nặng.

Tỷ lệ sống sót 5 năm cao khoảng 80% hiện đã được ghi nhận.

Carcinoma tế bào gan, viêm gan B và C, hội chứng Budd Chiari có thể xảy ra trên gan ghép nhưng nhìn chung các bệnh gan mạn tính khác không xảy ra.

Ức chế miễn dịch đạt được bằng dùng cyclosporin hoặc tacrolimus, các corticosteroid và azathioprin, và có thể bị phức tạp hơn do nhiêm trùng, suy thận, và các rối loạn thần kinh, cũng như thải bỏ mảnh gan ghép, bít tắc mạch hoặc rò rỉ mật.

Theo HoaDaVietNam

 
Chat hỗ trợ
Chat ngay